× https://biogaia.vn/chuong-trinh-mua-1-tang-1-me-oi-tich-diem-ngay.html
 Đang thực hiện Loading...

Chủng ngừa và các loại vaccine cần thiết cho mẹ và bé ( Phần 2)

Chủng ngừa và các loại vaccine cần thiết cho mẹ và bé ( Phần 2)
Bài viết dưới đây, BioGaia sẽ giúp các bậc phụ huynh tìm hiểu một số loại vaccine thông dụng và cần thiết cho các bé.

1. Vaccine phế cầu và những hiểu nhầm

Đây là chủng vaccine mới được gia nhập vào Việt Nam trong khoảng thời gian gần đây nên gây ra nhiều thắc mắc cho cha mẹ và các y bác sĩ cũng nhầm lẫn trong quá trình chỉ định chích cho trẻ. 

Phế cầu có khoảng gần 100 type khác nhau, có thể gây ra các bệnh như: viêm tai giữa, viêm màng não, viêm phổi… Do đó, chích vaccine ngừa phế cầu sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc những bệnh trên. Trên thế giới hiện nay có có 3 loại vaccine ngừa phế cầu:
+ Vaccine Prevnar 13 (PCV 13): ngừa được 13 type phết cầu thường được dùng ở các nước phát triển.



+ Vaccine Synflorix (PCV 10 ) được dùng ở  Việt Nam, ngừa được 10 type phế cầu ( giống với loại PCV 13 nhưng ít hơn 3 tyoe) do giá thành rẻ, sử dụng cho trẻ từ 6 tuần tuổi trở lên, được chỉ định chích ngừa cho tất cả các trẻ từ 5 tuổi trở xuống.
+ Vaccine Pneumo 23 ngừa được 23 type phế cầu  ( 23 type này bao gồm luôn 10 type của Synflorix), dùng cho trẻ 24 tháng tuổi trở lên ( vì loại Pneumo23 này hầu như không tạp đáp ứng miễn dịch ở trẻ dước 2 tuổi). Loại vaccine này được chỉ định dành cho những trẻ có nguy cơ đặng biệt như bị suy giảm miễn dịch bao gồm: trẻ bị cắt lá lách hoặc không có lá lách, bị bệnh lý hồng cầu hình liềm, nhiễm HIV, tiểu đường, suy thận mãn tính, suy giảm miễn dịch bẩm sinh… Những trẻ có sức khỏe và hệ miễn dịch bình thường không cần phải chích loại vaccine phết cầu Pneumo23 này.

2. Trẻ bú mẹ hoàn toàn vẫn CẦN uống vaccine rotavirus

Hiện nay, có thông tin cho rằng, trẻ bú mẹ hoàn toàn không cần phải uống vaccine rotavirus bởi sữa mẹ đã bảo vệ trẻ hoàn toàn khỏi virus rota và nếu có uống cũng không có tác dụng gì. Thực tế, điều này là không đúng.

Virus rota là loại virus gây bệnh tiêu chảy cấp và vẫn đến mất nước phần lớn ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ trên khắp thế giới. Bệnh này xảy ra ở hầu hết trẻ trong độ tuổi từ 3 tháng- 2 tuổi và hầu như trẻ nào cũng đều bị nhiễm virus rota một lần trước khi 5 tuổi. Bệnh gây mất nước nặng và khiến trẻ có nguy cơ bị tử vong. Virus này lây rất nhanh, lây từ người qua người khi tiếp xúc, nước bọt và qua những đồ chơi bị nhiễm bệnh. Hiện nay, vẫn chưa có thuốc đặt trị bệnh do virus rota gây ra.



Vì virus rota gây bệnh bằng cách xâm nhập vào ruột, gây bệnh về tiêu hóa, nên nếu cơ thể bị nhiễm bệnh, hệ miễn dịch ở ruột sẽ sản sinh ra kháng thể ở thành ruột để chống lại virus này ( chứ không phải kháng thể sinh ra trong máu). Đó là lý do vì sao vaccine rotavirus là ở dạng uống chứ không phải dạng tiêm.

Vậy câu hỏi đặt ra là bú sữa mẹ có phòng ngừa được virus rota hay không? Câu trả lời là có thể. Các nghiên cứu khác nhau cho thấy rằng trong sữa mẹ có chứa loại kháng thể chống lại virus rota bằng cách ức chế khả năng nhân đôi của loại virus này. Do đó, nếu trẻ bú mẹ uống vaccine rotavirus có thể làm giảm đáp ứng miễn dịch của vaccine đối với trẻ. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một khuyến cáo nào cho rằng trẻ bú mẹ thì k nên uống vaccine rotavirus. Dù bú sữa mẹ giúp trẻ giảm khả năng mắc bệnh viêm đường ruột do siêu vi nhưng không có nghiên cứu nào cho thấy rằng trẻ bú mẹ thì được bảo vệ hoàn toàn khỏi virus rota.

Hiện nay, CDC và WHO chỉ đưa ra gợi ý nên cho trẻ uống vaccine rotavirus sau một quãng thời gian nhất định sau khi bú sữa mẹ, để làm giảm việc không đáp ứng hoàn toàn miễn dịch của vaccine này. Do đó, trẻ nên được uống vaccine rotavirus để phòng ngừa bệnh dù có  bú mẹ hay không bú mẹ hoàn toàn.
 
_ Những trẻ sau KHÔNG được uống vaccine rotavirus:
+Trẻ đã từng bị phản ứng dị ứng đe dọa đến tính mạng vì vaccine rotavirus trước đó thì không được uống tiếp loại vaccine này.
+ Trẻ bị suy giảm hệ miễn dịch.
+Trẻ từng bị mắc bệnh lồng ruột
+Trẻ sử dụng các thuốc chứa steriod.
_ Những phản ứng phụ nghiêm trọng có thể có khi bé uống vaccine rotavirus:
+ Trẻ bị lồng ruột. Tỷ lệ trẻ bị chứng lồng ruột từ vaccine rotavirus thường xảy ra trong vòng 1 tuần sau khi uống liều thứ 1 hoặc liều thứ 2 và tỷ lệ trẻ gặp phản ứng phụ này là 1/20000- 1/100000 trẻ ( con số thống kê tại Mỹ). Trong thực tế, trẻ vẫn có thể bị lồng ruột không rõ nguyên do. Lồng ruột là một dạng ruột bị tắc, có thể điều trị tại bệnh viện và có thể phải phẫu thuật. Tuy nhiên, hiện nay vaccine rotavirus gây ra chứng lồng ruột đã được loại bỏ.
+ Trẻ có thể bị đi tiêu chảy nhẹ trong vòng vài ngày, thậm chí kéo dài đến 2 tuần sau khi uống vaccine rotavirus.
Cha mẹ cần lưu ý rằng, trẻ uống vaccine rotavirus chỉ có thể ngừa bệnh tiêu chảy nặng do virus rota chứ không ngăn ngừa được tiêu chảy do các nguôn lây bệnh là các loại siêu vi, vi khuẩn khác, và trẻ được uống ngừa vaccine rota vẫn có thể bị tiêu chảy nhẹ do virus này.

3. Tìm hiểu về vaccine sởi ( hay sởi – quai bị - rubella, còn gọi là vaccine MMR)

Vào năm 2014, vấn đề lây nhiễm chéo bệnh sởi ở các bệnh nhi tại bệnh viện tuyến đầu thử đô đã khiến nhiều bà mẹ lo lắng. Làm sao phòng ngừa được bệnh sởi? Cách phòng ngừa hữu hiệu nhất bệnh sởi có phải là chích ngừa sởi? Cũng như có nhiều thắc mắc xung quanh lịch chích ngừa sởi: chích một mũi hay hai mũi, chích lúc mấy tháng tuổi thì được, lúc nào chích nhắc lại mũi 2…



Vaccine sởi ( cũng như quai bị, rubella hay trái rạ) là vaccine sống giảm độc lực, có nghĩa đó là virus sởi sống những đã làm yếu đi để không gây ra bệnh thức sự. Thường ở những nước đang hát triển như Việt Nam, chương trình tiêm chủng mở rộng chích mũi sởi đầu tiên cho trẻ 9 tháng tuổi. Nhưng  trước khi chào đời, trẻ nhận kháng thể từ mẹ qua nhau thái, trong đó có thể đã có kháng thể chống lại sởi. Kháng thể này sẽ được sử dụng dần và thường hết lúc trẻ khoảng 1 tuổi. Do đó, khi trẻ được chích vaccine sởi trước 1 tuổi, kháng thể còn trong máu sẽ tiêu diệt một phần vaccine sởi đó ( tiêu hủy bao nhiêu không biết được ) vì thế, cơ thể chỉ đáp ứng tạo kháng thể đối với vaccine còn lại, có thể chỉ còn 50% hay 60% chích vào. Hiện tượng này gọi là đáp ứng miễn dịch không hoàn toàn. Vì thế, mũi vaccine sởi trước trẻ khi trẻ được 1 tuổi không được tính là mũi chích đầu tiên. Chính vì không được đáp ứng miễn dịch hoàn toàn nên nếu sau1 tuổi mà trả không được chích nhắc lại mũi vaccine sởi, trẻ vẫn có nguy cơ mắc bệnh sỏi, Tuy nhiên, những trẻ này đã có đáp ứng miễn dịch nên bị sởi thường sẽ bị nhẹ hơn những trẻ chưa chích ngừa sởi bao giờ.

Vaccine sởi trước 1 tuổi dù không giúp trẻ đáp ứng miễn dịch hoàn toàn những vẫn có hiệu quả bảo vệ tạm thời, vì thế, nếu có dịch sở, trẻ từ 6 tháng – 11 tháng tuổi vẫn có thể chích một mũi sởi để bảo vệ tạm thời. Nếu trẻ tiếp xúc với bệnh nhân bị sởi và chưa được chích ngừa sởi thì chích ngừa sởi cho trẻ trong vòng 72 giờ sau khi tiếp xúc cũng có thể giảm nguy cơ bị bệnh sởi hay giảm nguy cơ bị sởi nặng.

Từ  1 tuổi trở lên, trẻ phải chích lại mũi sởi ( thường trẻ được chích mũi MMR) và lúc đó mới tính là mũi chích đầu tiên ( mũi 1 ). Nếu trẻ chích vaccine sởi đầu tiên vào lúc 1 tuổi trở lên thì được xem là đáp ứng miễn dịch hoàn toàn và lượng kháng thể tạo ra đủ sử dụng trong vài năm. Trẻ sở được chích nhắc lại một mũi vaccine sởi trong khoảng 4-6 tuổi. Không nhất thiết là phải tiêm nhắc lại sớm hơn, tuy nhiên muốn tiêm nhắc sớm hơn cũng được, miễn là phải cách mũi vaccien trước tối thiểu 4 tuần lễ. Nếu trẻ chích mũi đầi tiên sau 1 tuổi thì hiệu quả bảo vệ của vaccine sởi là hơ 97%. Trẻ đã được chích ngừa sởi rồi và chích theo lịch đầy đủ thì bạn không cần lo lắng quá mức khi dịch sởi bùng phát.
Như mọi loại vaccine khác, vaccine sởi cũng có thế có một số tác dụng phụ. Có khoảng 10% trẻ được chích ngừa sở có thể sốt và phát ban sau khi tiêm khoảng 1-2 tuần. Tuy nhiên, tình trạng trẻ bị phản ứng này rất nhẹ và tự khỏi hoàn toàn. Vaccine sở là vaccien sống nên nguyên tắc không được tiêng cho phụ nữ mang thai hay người đang suy giảm miễn dịch. Đương nhiên, người dị ứng nặng với thành phần trong vaccine sởi ( ví dụ dị ứng với kháng sinh neomycine) cũng không tiêm vaccine này được. Vaccine sởi vẫn có thể tiêm cho phụ nữa đang cho con bú. Việc chích ngừa sở kịp thời và đủ là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa bệnh sởi.

4. Hiểu về vaccine ho gà toàn tế bào và vô bào

_ Vaccine ho gà TOÀN TẾ BÀO
Nhà sản xuất dùng nguyên tế bào vi khuẩn ho gà ( đã chết) để làm vaccine. Do đó, vaccine này chứa rất nhiều kháng nguyên nên có tác dụng phụ mạnh hơn, tức là phản ứng sau chích vaccine nhiều hơn ( chứ không phải là sốc phản vệ ) như: sốt cao và đau chỗ chích nhiều hơn. Tuy nhiên, tất cả các vaccine đều có tác dụng phụ sốt, sưng hay đau chỗ chích chẳng hạn. Và những phản ứng này thường sẽ khỏi sau 1-2 ngày mà không gây nguy hiểm đến sức khỏe của trẻ.



_ Vaccine ho gà Vô bào
Nhà sản xuất chỉ trích vài kháng nguyên của tế bào vi khuẩn ho gà để làm vaccine, vì kháng nguyên ít nên tác dụng phụ cũng ít hơn, phản ứng sau khi chích vaccine cũng nhẹ hơn. Do đó, sau năm 1995, người ta bắt đầu dùng vaccine ho gà vô bào để chích ngừa nhằm giảm tác dụng phụ mà vẫn đảm bảo bảo vệ được trẻ trước bệnh ho gà. 

Tác dụng phụ mạnh hơn không có nghĩa là vaccine ho gà toàn tế bài ít an toàn hơn mà hai vaccine ho gà này đều có độ an toàn như nhau bởi tỷ lệ sốc phản vệ là như nhau 1/1000000000 trường hợp. ĐIều này nghĩa là nếu bạn sử dụng vaccine dịch vụ 6 trong 1 có thành phần chứa vaccine ho gà vô bào thì tỷ lệ sốc phản vệ là tương đương với vaccine 5 trong 1 tiêm chủng mở rộng. 

Mặt khác, trong thời gian gần đây, tại Mỹ đã ghi nhận những ca y khoa lâm sàng cho thấy:
+ Trẻ được chích vaccine ho gà toàn tế bào thì kháng thể sinh ra đủ mạnh để bảo vệ trẻ đến năm 20 tuổi.
+ Trẻ chích vaccine ho gà vô bào thì có nguy cơ mắc bệnh ho gà vào tầm giữa 10-20 tuổi.
Do đó, đối với những trẻ chích ngừa vaccine ho gà dạng vô bào thì đến năm 10-11 tuổi trở lên sẽ được nhắc lại thêm 1 mũi nữa để kích hoạt lại miễn dịch bảo vệ cho trẻ.

5, Chích vaccine có thực sự là nguyên nhân khiến nhiều trẻ tử vong?

Thời gian gần đây, một số thông tin báo chí đăng tải các vụ biến chứng xảy ra sau khi chích ngừa, thậm chí là tử vong, khiến phụ huynh không dám đưa con đi chích ngừa. Hiện nay, chưa có một kết luận thực sự nào cho thấy những trường hợp tử vong sau khi tiêm phòng là do vaccine.
Cách đây 8-9 năm, có một vụ tai biến khi chích vaccine viêm gan B tại trạm y tế địa phương khiến vài trẻ tử vong. Hầu hết cha mẹ thường an táng con âm thầm, còn một trẻ được mổ tử thi để kiểm nghiệm và kết luận trẻ tử vong là do bị bị tắc mạch vành trong tim dẫn đến dột quỵ. ĐÓ là tình trạng bệnh rất hiếm khi xảy ra ở trẻ sơ sinh và nếu trẻ đó không chích ngừa ngày hôm đó, trẻ vẫn có thể tử vong do tắc mạch vành tim. Hai sự kiện xảy ra trước sau hay cùng lúc thì có mối liên hệ về thời gian nhưng không chắc có mối liên hệ nhân quả. Do đó, muốn biết trường hợp tử vong sau khi chích ngừa có phải gây ra do chính vaccine hay không thì thường phải giải phẫu tử thi để khám nghiệm. Và thường thì những kết luận sau cùng về nguyên nhân tử vong của trẻ không được báo đài “ đính chính” hay cập nhật.



Tương tự như thế, vào năm 2006, có một vụ tai biến sau khi chích vaccine MMR tại một số trường ở quận 5 (Tp. Hồ Chí Minh), một trẻ tử vong và khoảng năm, sáu trẻ khác bị nhiễm trùng huyết khiến cho các phụ huynh không dám cho con chích ngừa MMR. Thực chất, tai biến đó không liên quan đến bản thân vaccine MMR , mà là do vi khuẩn cầu tụ cầu lây từ ngoài vào một số trử được chích và gây nhiễm trùng huyết.

Nguồn gốc của vi khuẩn đó có lẽ từ hầu họng của một nhân viên chích ngừa. Kết luận này được đưa ra sau khi đoàn thanh tra y tế kiểm tra sức khỏe của các trẻ, các nhân viên y tá và của cha mẹ trẻ.

6. Vaccine cũng là “ NẠN NHÂN TRUYỀN THÔNG” ở các nước tiên tiến

Vấn đề về thông tin trên báo chí truyền thông đôi khi không chính xác đã làm cho phụ huynh lo sợ, không cho con chích ngừa kịp thời và đầy đủ, khiến một số bệnh quay trở lại như sởi và thủy đậu. ĐIều này không chỉ ở Việt Nam, mà cả trên thế giới. Năm 2012-2013, tại Anh và Wales xảy ra một dịch sởi, gây bệnh cho khoảng 3000 bệnh nhân hầu hết ở khoảng 10-18 tuổi. Nguyên nhân của vụ dịch sởi đó là do một nghiên cứu của BS. Andrew Wakefield được công bố vào năm 1998 cho rằng: vaccine MMR ( sởi- quai bị- rubella) có liên quan đến bệnh tự kỷ ở trẻ em ( dù nghiên cứu này được xác định là lamfgiar số liệu và không được công nhận sau đó). Vì những thông tin đó, các phụ huynh từ chối chích ngừa cho trẻ. Kết quả là những trẻ không được chích ngừa sởi đầy đủ lúc ấy đã không có đủ miễn dich bảo vệ với sởi nên mới  bị mắc bệnh sởi trong trận dịch đó.

Tại Mỹ, từ năm 2012 đến 2013, tỷ lệ tiêm chủng có sự giảm nhẹ khoảng 1% WHO cho rằng một trong nhuwngxlys do gây ra sự tụt lùi trong việc tiêm chủng cho trẻ là sự tranh cãi về phong trào bài trừ Vaccine của các phụ huynh. Tờ Time ( Mỹ) đưa tin, tỷ lệ tiêm phòng bệnh sởi ở trẻ khoảng 1 tuổi tại mỹ là (1%, chỉ ngang bằng với đất nước Angola ở Châu Phu. Điều này khiến cho bệnh sởi, vốn được coi là bị xóa sổ từ năm 2000 tại Mỹ, đã bùng phát trở lại thành dịch sởi trên quy mô lớn vào tháng 12 năm 2014 và lan rộng hơn mười mấy bang trên cả nước khiến người dân lo ngại.

7, Chất bảo quản vaccine KHÔNG gây hại cho trẻ

Cũng có một số cha mẹ lo ngại về việc, trong những chất bảo  quản vaccine có chất thủy ngân có có thể gây hại cho não. Thực ra, trong một số vaccine có chưa một lượng cực nhỏ hợp chất có thủy ngân ( ethy thủy ngân ) để ngăn ngừa sự phát triển của một số loại nấm hay tác nhân nhiễm trùng. Trong khi đó, một số nghiên cứu cho thấy một hợp chất khác của thủy ngân ( methyl  thủy ngân ) mới có thể độc đối với não. Hai loại hợp chất thủy ngân này khác nhau về bản chất, nên việc cha mẹ lo lắng về chất bảo quản có chứa thủy ngân trong vaccine gây độc cho não là chưa có căn cứ khoa học. Tuy nhiên, hiện nay, các nàh sản xuất đã loại bỏ thủy ngân ra khỏi nhiều loại vaccine, và chỉ còn một lượng cực nhỏ trong một số vaccine nhất định.

8. Tỷ lệ trẻ sốc phản vệ sau chích ngừa là cực kỳ thấp

Có lẽ điều mà phụ huynh sợ nhất khi đưa con đi chích ngừa là trẻ bị dị ứng vaccine nặng ( tình trạng sốc phản vệ ) có thể dẫn tới tử vong. Và đây cũng là một trong những lý do được báo chí “ vin” vào đê đưa ra những thông tin chưa dc xác thực khiến cha mẹ lo lắng về tình trạng vaccine không an toàn. Nhưng trong thực tế, tình trạng dị ứng nặng hay sốc phản vệ do chích ngừa có lẽ không nhiều như báo chí đăng tin.

Để đưa một vaccine vào thị trường, vaccine đó đã được kiểm tra và thử nghiệm rất nghiêm ngặt qua nhiều bước để loại trừ tất cả những rủi ro có thể xảy ra:
_ Đầu tiên là chích ngừa trên động vật sống để thử nghiệm, kiểm tra phản ứng và kết quả.
_ Sau đó chích ngừa một nhóm người tình nguyện nhỏ. Trong đó quá trình chích ngừa thử nghiệm, những người tình nguyện sẽ được theo dõi trong một thời gian đủ lâu để xem xét các phản ứng và hiệu quả từ vaccine.
_ Tiếp đó, vaccone mới mở rộng ra và để sử dụng cho một nhóm đông hơn.
_ Và cuối cùng, vaccine đó mới được mang đến sử dụng cho số đông và cộng đồng.
Vì thế, xác xuất để xảy ra phản ứng sốc phản vệ là rất hiểm ( dự đoán là 1/1000000 trường hợp).

So với xác suất cực thấp này, xác xuất trẻ không được chủng ngừa vaccine có nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đến tính mạng ( như tiêm màng não mủ, nhiễm trùng máu, ho gà… ) và lây nhiễm cho cộng đồng là một con số cao hơn rất nhiều. Do đó, các tổ chức y tế thế giới vẫn khuyến cáo cha mẹ nên cho trẻ tiêm phòng sau sinh, để không chỉ phòng bệnh cho con mà còn cho cả cộng đồng.

9. Biểu hiện sốc phản vệ khi chích vaccine

Trường hợp trẻ bị dị ứng vaccine rất hiếm, nhưng không phải là không có. Trẻ bị sốc phản vệ do chủng ngừa cũng sẽ có biểu hiện như bất kỳ sốc phẩn vệ do các tác nhân nào khác như thực phẩm ( ví dụ dị ứng đậu phộng ) hay các loại thuốc chẳng hạn.
_ Đa số sốc phản vệ sẽ có hiện tượng tụt huyết áp, khiến trẻ bị mệt nhiều, lừ đừ, tay chân lạnh.
_ Ở một số trẻ, sốc phản vệ có thể gây ra phù nề ở thanh quản ( đường thở ở họng ) gây khó thở cấp tính.
_ Ở mức độ nặng nhất thì trẻ sẽ bị trụy tim mạch và ngưng thở ngay lập tức ( tuy nhiên trường hợp này HIẾM khi xảy ra).



Tất cả các tình trạng sốc phản vệ đều cần được cấp cứ kịp thời tại cơ sở y tế gần nhất. Và ở bất cứ trạm y tế hay bệnh viện nào, các bác sĩ và y tá đều được đào tạo để xử lý sốc phả vệ ngay tại chỗ để bảo toàn tính mạng cho trẻ.
Hầu hết các trường hợp sốc phản vệ đều diễn ra trong vòng 15 đến 30 phút sau khi tiêm. Còn hiếm hoi lắm mới có việc sốc phản vệ trong quãng thời gian lâu hơn sau đó. Do đó, cha mẹ cần thực hiện đúng yêu cầu để trẻ ở lại trung tâm y tế sau khi chích vaccine 30 phút và theo dõi trẻ kỹ để y- bác sĩ can thiệp kịp thời khi phát hiện ra điều bất thường ở trẻ

10. Cách giảm đau cho trẻ sau chích ngừa

Hiện nay, vãn còn một số “ truyền thuyết” về việc giảm đau cho trẻ sau chích ngừa như đắp khoai tây, hoặc dưa leo lên vết chích. Thực ra, việc đắp khoai tây hay dưa leo lên vết chích không giúp trẻ giảm đau, ngược lại, điều này có khả năng gây ra nguy cơ nhiễm trùng ở vết chích.
Để giảm sự khó chịu quá mức cho trẻ, cha mẹ có thể dùng một chiếc khăn lạnh đắp lên vết chích nhằm giảm sưng đau ( khăn cần được tiệt trùng kỹ càng) hoặc dùng thuốc hạ sốt paracetamol hay ibuprofen ( dành cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên ) nếu trẻ sốt cao hay có phản ứng quá khó chịu.



Việc khan hiến các mũi vaccine hiện nay khiến một số trẻ không được chích ngừa đầy đủ và kịp thời. Nên mỗi khi có dịch bệnh nào đó xảy ra là các bậc cha mẹ lại thêm một phen lo lắng. Do đó, cha mẹ có thể áp dụng một số biện pháp hiệu quả và đơn giản sau:
_ Khi đưa trẻ đi khám định kỳ, lúc đó có thể chích được bao nhiêu mũi vaccine thì hãy cho trẻ chích cùng một lúc ( tất cả các vaccine đều có thể chích cùng một lúc được).
_ Nên đem theo sổ chích ngừa để bác sĩ biết còn cần chích vaccien nào nữa.
_ Khi trẻ đi khám vì một ( hay vài ) bệnh ( hay vấn đề ) nào đó ( ví dụ như ho bị cảm, nhiễm trùng đường ruột… ) trẻ vẫn có thể chích ngừa được miễn là trẻ không đang bị sốt cao hay lừ đừ. Chích ngừa vào những dịp đó sẽ đỡ tốn công và thời gian phụ huynh đi thêm những lần khác chỉ để chích ngừa mà lại đỡ lo vaccine bị hết sau này.  Do đó, khi đi khám bệnh cho trẻ, phụ huynh nên tập thói quen đẹp theo sổ chích ngừa. Nếu cơ sở y tế nào có lưu được những hồ sơ chích ngừa của trẻ ( bằng giấy tờ hoặc bằng hồ sơ điện tử) thì sẽ đỡ cho phụ huynh hơn trong việc theo dõi tiền sử chích ngừa.


Nguồn tham khảo: Để con được ốm - Bs. Trí Đoàn



Tin liên quan

Click to call